Lương duyên với cửa phật[1] Lỗ Trí Thâm

Bỏ trốn truy nã, Lỗ Trí Thâm tình cờ gặp lại cha con Thúy Liên (hiện đang trong phủ của Triệu viên ngoại), để giúp Lỗ Trí Thâm. Triệu viên ngoại giới thiệu, Lỗ Đạt đến tự viện Văn Thù ở núi Ngũ Đài xuống tóc làm hòa thượng. Trí Chân trưởng lão đọc câu kệ tặng Pháp danh, rằng: “Linh Quang một điểm, giá trị ngàn vàng. Phật Pháp rộng lớn, ban tên Trí Thâm”. Ông đã có nơi an thân, mai danh ẩn tính sống qua ngày.

Tuy nhiên, Trí Thâm ở trong chùa khó giữ thanh quy Phật môn, sau cùng đã đại náo Ngũ Đài sơn, Trí Chân trưởng lão đành phải để ông đi đến chùa Đại tướng QuốcBiện Lương, Đông Kinh, khi chia tay, sư phụ tặng bốn câu kệ nói: “Ngộ Lâm nhi khởi, ngộ Sơn nhi phú. Ngộ Thủy nhi hưng, ngộ Giang nhi chỉ”. (Lâm tức chỉ Lâm Xung; Sơn là nói đến Nhị Long sơn, nơi Lỗ Trí Thâm làm đầu lĩnh; Thủy ám chỉ  vùng đầm lầy Lương Sơn; Giang ắt nói đến Tống Giang, vậy câu này có nghĩa là gặp Lâm Xung thì bắt đầu, đến Nhị Long sơn thì giàu có. Bước vào vùng Lương Sơn thì hưng thịnh, đến khi gặp Tống Giang là kết thúc). Khi tới chùa Tướng Quốc, Lỗ Trí Thâm phụ trách việc trông coi vườn rau. Một hôm, để thu phục bọn lưu manh, Trí Thâm đã nhổ bật gốc cây dương liễu, qua đây tình cờ gặp được Lâm Xung, hai người kết nghĩa huynh đệ.

Một hôm, Tống Giang và các tướng chỉ đưa theo một ít quân mã tuỳ tòng cùng đi với Lỗ Trí Thâm. Đến chân núi Ngũ Đài, Tống Giang sai dựng trại cho quân sĩ nghỉ ngơi rồi cho người lên chùa báo tin. Tống Giang và các tướng đều thay mặc thường phục, đi bộ lên núi. Vừa đến trước cổng chùa đã nghe bên trong tiếng trống dóng chuông khua, rồi các sư đều ra cổng ngoài đón tiếp, chắp tay vái chào Tống Giang, Lỗ Trí Thâm và các đầu lĩnh cùng đi.

Tống Giang mời Trí Chân trưởng lão ngồi ghế thượng tọa rồi thấy hương làm lễ bái kiến. Các đầu lĩnh xếp hàng cùng lạy. Lễ xong, Lỗ Trí Thâm lại bước lên dâng hương lạy chào riêng. Trí Chân trưởng lão nói: “Đồ đệ ra đi đã mấy năm nhưng tính hay đốt nhà giết người xem ra vẫn chưa bỏ được”. Hôm ấy, anh em Tống Giang ngủ đêm ở chùa Ngũ Đài sơn. Ngày hôm sau, trước lúc chia tay, Trí Chân trưởng lão lại tặng Lỗ Trí Thâm bốn câu kệ, nói: “Phùng Hạ nhi cầm, phùng Lạp nhi chấp. Thính triều nhi viên, văn tín nhi tịch”. (Thực tế, gặp Hạ thì bắt, ông đã bắt sống tướng Hạ Hầu Thành của Phương Lạp; gặp Lạp thì trói – ông đã bắt trói Phương Lạp; khi nghe tiếng sóng triều cũng là lúc viên tịch). Lỗ Trí Thâm lạy nhận bài kệ, đọc đi đọc lại mấy lần để ghi nhớ trong tâm.

Một ngày kia, Lỗ Trí Thâm nghỉ lại tại chùa Lục Hòa ở Hàng Châu, trong đêm đột nhiên bị tiếng sóng trên sông Tiền Đường làm cho giật mình tỉnh giấc, ông tưởng là tiếng trống trận đang vang lên, vội nhặt cây Thiền trượng lên muốn chạy ra ngoài giết chóc, liền bị tăng nhân trong chùa ngăn lại, nói với ông đây là tiếng sóng triều bên sông. Lỗ Trí Thâm vừa nghe những lời này xong, đột nhiên nhớ đến lời kệ mà Trí Chân trưởng lão tặng ông năm xưa: “Thính triều nhi viên, văn tín nhi tịch”. Liền lập tức đốn ngộ, sau khi để lại một câu kệ liền ngồi tọa hóa, câu kệ này viết rằng: “Bình sinh chẳng tu thiện quả, chỉ thích giết người phóng hỏa. Chợt tỉnh tháo tung dây thừng vàng, tới đây giật phăng chiếc khóa ngọc. Tiền đường nghe sóng triều vang dội, mới tỉnh ra rằng ta là ta”.

Kính Sơn Đại Huệ thiền sư cuối cùng chỉ vào quan tài của Lỗ Trí Thâm mà rằng: “Lỗ Trí Thâm, Lỗ Trí Thâm! Khởi thán tự rừng xanh. Hai con mắt phóng hỏa, một mảnh tâm sát nhân. Bỗng đi theo thủy triều, quả nhiên tìm không ra. Ồ! Thân được giải thoát khắp trời đều là bạch ngọc, khiến cho mặt đất thành hoàng kim”. Hai câu sau “thân được giải thoát khắp trời đều là bạch ngọc, khiến cho mặt đất thành hoàng kim” là thần tích xuất hiện khi một người đã giác ngộ, là Phật mới có được vinh diệu này. Vì vậy Lỗ Trí Thâm sau khi chết đã được giải thoát, trở thành Đấng Giác Ngộ.